Nguyễn Trung Thành đã vận dụng thành công yếu tố sử thi vào trong tác phẩm Rừng xà nu một cách độc đáo và đầy sáng tạo. Để giúp các em có thể phân tích được tính sử thi trong tác phẩm Rừng xà nu lltb3d.com xin gửi đến các em tài liệu dưới đây. Hy vọng tài liệu này sẽ hữu ích với các em. Cùng tham khảo nhé!

1. Dàn ý phân tích tính sử thi trong Rừng xà nu

2. Cảm nhận tính sử thi trong văn bảnRừng xà nu

3. Phân tích ý nghĩa tính sử thi của tác phẩmRừng xà nu

*

a. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chất sử thi của tác phẩm.

Đang xem: Dàn ý tính sử thi trong rừng xà nu

– Nêu nội dung và ý nghĩa văn bản Rừng xà nu để dẫn dắt phân tích tính sử thi có trong tác phẩm.

b. Thân bài:

– Khái niệm sử thi:Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi), có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu, những sự kiện có tính chất toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc. Ở Việt Nam có người anh hùng Đam San trong Bài ca Đăm Săn của người Ê Đê…).

– Hoàn cảnh sử thi:Truyện ngắn Rừng xà nu được in trong tập truyện ngắn Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.Tác phẩm được viết vào năm 1965. Đây là thời điểm Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam . Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam ở vào hồi quyết liệt: giặc Mỹ điên cuồng đánh phá Cách mạng miền Nam. Trước sự hủy diệt tàn bạo của kẻ thù, tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân (từ miền ngược đến miền xuôi) càng kiên cường và bất khuất “Họ đã xuống đường và đem cả lương tâm và nhân phẩm bắn tỏa lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai).

– Chất sử thi thể hiện trong tác phẩm Rừng xà nu:

+ Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên:

Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra.Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man).Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời.Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”.

+ Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xô Man:

Tnú và chặng đường đầu của cách mạng (Nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc bắt).Vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc.Cùng một lúc phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay).Hình tượng đôi bàn tay Tnú (đôi tay cần cù lao động, đôi tay chứng nhân tội ác kẻ thù, đôi tay chưa bao giờ biết phản bội…).

+ Tính cộng đồng trong tác phẩm: Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già làng Mết, từ già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua Dít, Dít chảy qua Heng, Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn không bao giờ lùi bước trước quân thù.

+ Nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng xà nu:

Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu sắc sử thi truyền thống.Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ.Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở.Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu truyện.Sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnú đi còn bé, 3 năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ).

c. Kết bài:

– Khẳng định vẻ đẹp sử thi của tác phẩm, của thời đại.

– Liên hệ “Những đứa con trong gia đình”.

Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu. Ông vốn là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là ngòi bút gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên, có nhiều thành tựu nhất khi viết về Tây Nguyên. Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm đặc sắc của ông trong kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm mang đậm chất sử thi, viết về những vấn đề trọng đại của dân tộc; nhân vật trung tâm mang những phẩm chất chung tiêu biểu cho cộng đồng; giọng điệu ngợi ca, trang trọng, hào hùng.

Xem thêm: Mọi Chuyện Cũng Đã Kết Thúc Từ Rất Lâu Rồi (Lê Bảo Bình), Kết Thúc Lâu Rồi

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ. Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại. Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.

Tác phẩm sử thi có tính đặc trưng về ngôn ngữ, giọng điệu, cảm hứng chủ đạo, nội dung tác phẩm… “Rừng xà nu” là một truyện ngắn chứ không phải là tác phẩm sử thi nhưng tính sử thi lại được thể hiện khá rõ nét. Âm hưởng sử thi cũng là một phần quan trọng góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.

Trước hết, tính sử thi trong tác phẩm “Rừng xà nu” được biểu hiện ở việc nhà văn xây dựng những sự kiện có tính chất cộng đồng chứ không phải chỉ của cá nhân riêng lẻ. Những chuyện của làng Xô Man cũng là những chuyện chung của Tây Nguyên, của cả miền Nam và cả đất nước của chúng ta. Bọn Mĩ – Diệm đi tới đâu là chúng chèn ép người đến đấy. Chúng thà giết nhầm chứ quyết không để cho cộng sản của chúng ta có đường chạy thoát. Thế nhưng dân tộc ta là một dân tộc yêu nước đồng bào ta là một đồng bào kiên cường cho nên ngày giặc càn quét, toàn thể nhân dân đã đồng lòng đứng dậy chống Mĩ. Chuyện làng Xô Man mài gươm giáo, nổi dậy và sẵn sàng đánh giặc chính là hình ảnh, là tinh thần của toàn thể dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ hào hùng.

Bên cạnh việc xây dựng những sự kiện mang tính cộng đồng thì “Rừng xà nu” còn xây dựng hình ảnh một tập thểanh hùng.Đây cũng là một phương diện thể hiện tính sử thi rõ nét trong tác phẩm. Nhà văn đã dựng lên bức chân dung những người anh hùng mang những nét tính cách và phẩm chất của người làng Xô Man, của những người con Tây Nguyên gan trường bất khuất. Những người anh hùng trong “Rừng xà nu” tuy đa dạng lứa tuổi, đa dạng về số phận riêng nhưng đều chiến đấu vì một mục đích cách mạng, góp phần làm nên chiến thắng, đem lại bình yên và hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Tuy rằng chiến công của mỗi người là khác nhau nhưng nó cùng làm nên chiến thắng chung cho tất cả mọi người. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên là do tất cả mọi người cùng viết ra chứ không phải chỉ riêng của một người làm ra. Bản trường ca vì thế đa thanh đa sắc, nó là sự tổng hoà của rất nhiều giọng điệu khác nhau. Anh Quyết, cụ Mết, Tnú, Mai, cô Dít, bé Heng là những người tiêu biểu nhất. Nhưng bên cạnh họ còn có dân làng, có những người phía sau cùng đồng lòng để làm nên chiến thắng vang dội. Tất cả cùng góp phần vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc.

Mở đầu tác phẩm, nhà văn tập trung giới thiệu về rừng xà nu, một rừng xà nu cụ thể được xác định rõ: “nằm trong tầm đại bác của đồn giặc”, nằm trong sự hủy diệt bạo tàn: “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Truyện mở ra một cuộc đụng độ lịch sử quyết liệt giữa làng Xô Man với bọn Mĩ- Diệm. Rừng xà nu cũng nằm trong cuộc đụng độ ấy. Xà nu hiện ra với tư thế của sự sống đang đối diện với cái chết, sự sinh tồn đối diện với sự hủy diệt. Cách mở của câu chuyện thật gọn gàng, cô đúc mà vẫn đầy uy nghi tầm vóc.Với kĩ thuật quay toàn cảnh, Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ra: “cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thương”. Tác giả đã chứng kiến nỗi đau của xà nu: “có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão”. Rồi “có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loóng, vết thương không lành được cứ loét mãi ra, năm mười hôm sau thì cây chết”.

Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào Xôman đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang vươn lên mạnh mẽ như người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ thù. Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh nắng mặt trời tựa như người Xô man chân thật, mộc mạc, phóng khoáng yêu cuộc sống tự do. Rừng xà nu bạt ngàn, rừng xà nu trùng trùng lớp lớp các thế hệ nối tiếp cũng chính là thể hiện sự gắn bó, sức mạnh đoàn kết và sự nối tiếp bất tận của các thế hệ, gợi liên tưởng đến sức sống vô tận, bền bỉ, bất diệt của con người Xô man. Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang trước bom đạn cũng là biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ.

Hình tượng cây xà nu được miêu tả xuyên suốt tác phẩm. Tác giả đã dành trọn phần mở đầu truyện để miêu tả rừng xà nu. Trong khu rừng từng luồng nắng trên cao rọi xuống những thân cây sóng lớp thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra thơm ngào ngạt, mỡ màng. Tác giả đã dựng được khung cảnh có không gian ba chiều, tạo được không khí, làm sống dậy bức tranh thiên nhiên có vẻ đẹp tràn đầy chất thơ, tráng lệ. Thế nhưng dưới tội ác của kẻ thù, rừng đã mang trên mình những vết thương chiến tranh đau đớn, càng đau đớn rừng xà nu càng trào lên sức sống mãnh liệt: cạnh một cây đã ngã, có bốn năm cây con mọc lên ngọn xanh rờn, nhanh chóng liền lại vết sẹo trên cơ thể cường tráng. Và khúc vĩ thanh của truyện: cả khu rừng lớn bạt ngàn, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời. Bám rễ sâu trong lòng đất, những thân cao vươn lên đón nắng trời, ngàn năm như vẫn còn hát ru với gió… Thiên nhiên được miêu tả với sức sống to lớn, hùng mạnh, bất diệt. Vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ và bi thương của rừng hòa nhập với cuộc đời bi tráng của dân làng, nên rừng xà nu góp phần tạo ra vẻ đẹp sử thi, chất thơ của thiên truyện.

Khi tái hiện một đoạn trường lịch sử đánh giặc ngoại xâm, tác giả đã xây dựng một tập thể anh hùng trong đó nổi bật tính cách anh hùng. Cụ Mết là nhân vật lịch sử. Cụ là biểu tượng của sức mạnh tinh thần và có tính truyền thống của dân tộc Strá. Trong một tài liệu khác, tác giả bảo rằng: Ông là lịch sử bao trùm, gắn kết giữa quá khứ với hiện tại. Cụ là người đại diện cho quần chúng cách mạng, là gạch nối giữa Đảng với đồng bào dân tộc. Và vai trò của cụ Mết thể hiện rất rõ trong đêm đồng khởi và là người phát lệnh chiến tranh:Thế là bắt đầu rồi… đốt lửa lên. Chân lí đấu tranh cách mạng được rút ra từ thực tiễn chiến đấu giản dị mà sâu sắc: chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo. Cụ Mết đại diện cho sức mạnh, ý chí chiến đấu, trí tuệ và nguyện vọng của cộng đồng, là pho sử sống của cộng đồng, có ý thức giữ gìn lịch sử và là người đại diện cho lịch sử nên nhân vật này mang đậm tính sử thi.

Xem thêm: Cách Phối Đồ Với Áo Sơ Mi Trắng Nữ Đơn Giản Nhưng Vô Cùng Chất

Có thể thấy rằng truyện ngắn “Rừng xà nu” mang tính sử thi rất rõ nét. Yếu tố sử thi đã khiến cho tác phẩm để lại nhiều dư âm mạnh mẽ trong lòng người đọc. Và sự thành công của tác giả chính là thể hiện được tinh thần bất khuất kiên cường của một dân tộc trong những năm tháng chiến tranh, khơi gợi lên tinh thần sôi sục đấu tranh để hướng đến giải phóng dân tộc, bảo vệ bình yên cho Tổ quốc.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *